Theo thống kê của Bộ Công an, từ năm 2001 đến năm 2020, phát
hiện hơn 1.000 vụ lộ, mất bí mật nhà nước, riêng trong
năm 2020 cả nước có 68
vụ với 280 đầu tài liệu bí mật nhà nước bị lộ, mấtxảy ra tại các cơ quan trung ương và địa
phương. Trong đó, nhiều tài liệu thuộc danh mục Tuyệt mật, Tối mật liên quan
đến đường lối, chủ trương, chính sách Đối ngoại của Đảng, Nhà nước. Qua số liệu
thống kê có thể thấy diễn biến của việc lộ, mất bí mật đang có chiều hướng phức
tạp.
Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 quy định: Bí mật nhà nước là thông tin có nội
dung quan trọng do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác định căn
cứ vào quy định của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước, chưa công khai, nếu bị lộ, bị
mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.Theo quy định trên,
nếubí mật nhà nước mà để người không có trách nhiệm biết được bí mật nhà nước
hoặc việc bí mật nhà nước bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích của quốc gia,
dân tộc.
Những sơ hở tồn tại trong công tác bảo vệ bí mật nhà nước đã
và đang tạo ra nguy cơ trực tiếp làm lộ, mất bí mật nhà nước nếu không kịp thời
phát hiện và ngăn chặn, vì vậy có thể thấy tầm quan trọng của công tác bảo vệ
bí mật nhà nước và công tác này là nhiệm vụ quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo
vệ an ninh quốc gia, nên không thể lơ là mất cảnh giác.
Việclộ, mất bí mật nhà nước có thể kể đến một số nguyên nhân
như:
(1) Các thế lực thù
địch lợi dụng sự phát triển của CNTT thu thập tài liệu bí mật nhà nước, các đối
tượng này sử dụng kỹ thuật công nghệ cao nâng cấp các dòng mã độc, bám sát tình
hình chính trị, xã hội ở nước ta để thay đổi thủ đoạn tán phát mã độc. Điển
hình như tin tặc đã tán phát mã độc đính kèm thư điện tử giả mạo Chỉ thị của
Thủ tướng Chính phủ về phòng, chống dịch Covid-19 nhằm đánh lừa người dùng nhấn
mở tệp để lây nhiễm mã độc và đánh cắp thông tin, dữ liệu trên máy tính người
dùng, đặc biệt là thông tin của Chính phủ, các bộ, ban, ngành.
(2) Nhiều cơ quan, đơn vị chưa làm tốt
công tác phổ biến, tuyên truyền để nâng cao nhận thức, ý thức bảo vệ bí mật nhà
nước cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; một số cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chứcđã sao, chụp, soạn thảo tài liệu bí mật nhà nướctrên máy
tính có kết nối internet, dùng điện thoại thông minh chụp ảnh tài liệu mậthoặc
trao đổi tài liệu mật qua email, nhóm kíntrên mạng xã hội,….
(3)Được đăng tải công khai trên các
website, trang, cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức; tán phát trên mạng
xã hội của cá nhân; sử dụng hòm thư điện tử và hệ thống
liên thông văn bản điện tử có kết nối internet để chuyển, nhận tài liệu và qua
một số hình thức khác.
Đã có rất nhiều vụ án vi phạm pháp luật
làm lộ tài liệu bí mật nhà nước với tính chất, mức độ rất nghiêm trọng gây ảnh
hướng lớn đến chính trị, kinh tế của đất nước. Một trong những vụ án gần đây
nhất không thể không nhắc đến vụ ông Nguyễn Đức Chung - Chủ tịch UBND TP. Hà
Nội đã bị tuyên án 5 năm tù về tội chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước. Hay vụ
án Phan Văn Anh Vũ (Vũ Nhôm) bị tuyên án 9 năm tù tội cố ý làm lộ tài liệu bí
mật nhà nước. Ngày
25/3/2021 Viện Kiểm Sát nhân dân tỉnh Phú Yên đã ban hành cáo trạng truy tố 18
bị can liên quan đến vụ án cố ý làm lộ tài liệu bí mật nhà nước trong kỳ thi tuyển
công chức năm 2017 - 2018. Thời gian vừa qua trên địa bàn tỉnh xảy ra một số vụ
việc liên quan đến việc vi phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà
nước, cụ thể như:
(1) Chuyển, nhận văn bản có nội dung bí
mật nhà nước trên hệ thống quản lý văn bản điều hành và liên thông văn bản điện
tử các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
(2) Cán bộ soạn
thảo văn bản bí mật nhà nước nhưng không có phiếu đề xuất độ mật cho văn bản
theo quy định; lãnh
đạo cơ quan, đơn vị có trách nhiệm xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí
mật nhà nước nhưng thiếu kiểm tra, chấn chỉnh, nhắc nhở đối với cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị về việc đề xuất độ mật cho văn
bản.
Từ ngày 1/7/2020, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 chính
thức có hiệu lực, Luật đã khắc phục những vấn đề đã tồn tại, bất cập của Pháp
lệnh như:(1) Khái niệm bí mật nhà nước của Pháp lệnh còn chung chung, liệt kê
gây khó khăn cho việc xác định, quản lý và sử dụng; (2) Phạm vi bí mật nhà nước
xác định theo từng cấp độ chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn nên việc lập danh mục
của các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc; (2) đối tượng thuộc diện lập danh mục bí mật nhà nước chưa đảm bảo tính
khả thi; (4) thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục in, sao, chụp, nghiên
cứu, phổ biến, cung cấp, chuyển giao và giải mật bí mật nhà nước còn thiếu,
chưa bảo đảm tính công khai minh bạch; (5) chưa quy định cụ thể về hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực bảo vệ bí mật nhà nước nên việc đàm phán, ký kết và thực hiện
các hiệp định về bảo vệ bí mật nhà nước còn hạn chế; (6) trách nhiệm, nghĩa vụ
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác bảo vệ bí mật nhà nước chưa cụ
thể dẫn đến nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và
nhân dân còn chủ quan, mất cảnh giác, làm giảm chất lượng, hiệu quả của công
tác này.
Để góp phần ngăn chặn lộ, mất bí mật nhà nước thủ trưởng các
cơ quan, ban, ngành cần đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo vệ bí
mật nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trực tiếp làm
việc liên quan đến bí mật nhà nước; ứng dụng thành tựu của khoa học công nghệ
vào công tác bảo vệ bí mật nhà nước; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.
AN NHIÊN