LTS - Nhà sử học, nhà báo Jean Lacouture (Giăng La-cu-tuya) là một người Pháp đã “dấn thân cho sự nghiệp cánh tả sau lần gặp nhà cách mạng Việt Nam Hồ Chí Minh”. Trong sự nghiệp của mình, J.Lacouture có nhiều công trình nghiên cứu công phu về Việt Nam, về cách mạng Việt Nam. Tóm lược khảo cứu của tác giả Phan Văn Hoàng sẽ giới thiệu với bạn đọc các thành tựu nghiên cứu này, cũng như về sự gắn bó của J.Lacouture với Việt Nam.
(Bài 1)
Jean Lacouture (1921 - 2015) đỗ cử nhân văn khoa, cử nhân luật, tốt nghiệp Trường khoa học chính trị Paris (Pa-ri - Pháp, tiền thân của Viện Nghiên cứu chính trị Paris), làm nghiên cứu sinh tại Đại học Harvard (Ha-vớt - Mỹ), từng giảng dạy tại Viện Nghiên cứu chính trị Paris, Đại học Vincennes (Vanh-xăng - nay là Đại học Paris VIII). Ông đồng thời là một nhà báo chuyên nghiệp với hàng nghìn bài báo, và là tác giả của 71 cuốn sách.
Ngày 15-8-1945, phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Những ngày sau đó, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh - đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh - nhân dân Việt Nam từ bắc chí nam đã lần lượt khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời với tư cách một quốc gia độc lập và thống nhất, chấm dứt gần một thế kỷ bị ngoại bang thống trị và bóc lột. Song cũng lúc đó, Chính phủ Pháp ráo riết tìm cách chiếm lại Đông Dương, và một lời kêu gọi đã được họ tung ra: Nhật - kẻ cướp đoạt Đông Dương từ tay Pháp trong cuộc đảo chính ngày 9-3-1945 vẫn còn ở đó, thanh niên Pháp hãy gia nhập quân đội để sang “giải phóng Đông Dương”! J.Lacouture, khi ấy 24 tuổi, đã hăng hái ghi tên. Đầu tháng 10-1945 ông rời cảng Marseille (Mác-xây). Sau 23 ngày lênh đênh trên biển, tàu Orontes chở toán quân của J.Lacouture cập bến Sài Gòn. Cùng P.Devillers (P.Đờ-vi-ê) và hai người nữa, ông được phiên chế vào Ban thông tin thuộc Bộ tham mưu quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương, với chức danh là “tùy viên báo chí” của tướng P.Leclerc (P.Lơ-clê), có nhiệm vụ xuất bản báo Caravelle nhằm động viên tinh thần binh sĩ Pháp.
Đặt chân đến Sài Gòn, J.Lacouture thấy tình hình Việt Nam không giống như lời kêu gọi ở Paris. Hàng quân Nhật đã bị giải giáp, đang chờ hồi hương. Một tháng trước đó, ngày 23-9, với sự tiếp tay của tướng Anh D.Gracey (D.Grây-xi), quân Pháp nổ súng chiếm nội thành Sài Gòn, sau đó đánh lấn ra một số thị xã, thị trấn ở Nam Bộ. Chính quyền cùng bộ đội Việt Minh đã rút ra vùng ven và khu vực nông thôn, tiếp tục kháng chiến. J.Lacouture làm quen với V.Saulnier (V.Xôn-ni-ê) - một nhà báo cộng sản, đang làm việc cho hãng thông tấn AP và là thành viên chủ chốt của Nhóm văn hóa Mác-xít (G.C.M - Groupe Culturel Marxiste) tại Sài Gòn. G.C.M quy tụ những người Pháp cánh tả (cộng sản, xã hội) và một số người không đảng phái nhưng có tư tưởng tiến bộ, có thiện cảm với nền độc lập của Việt Nam. Một số nhà yêu nước Việt Nam thường lui tới trụ sở G.C.M ở số 106 đường Léon Combes (nay là đường Sương Nguyệt Anh), đây vốn là nhà của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (khi đó đã ra chiến khu). Trò chuyện với người Pháp và người Việt ở đây, J.Lacouture biết mình sang Việt Nam không phải để đánh nhau với quân đội Nhật. Trong cuốn Máu màu mực (Un sang d’encre, NXB Stock/Seuil, Paris, 1974) ông đã viết: “Chúng tôi đang tham gia vào việc đàn áp một phong trào giải phóng nghiêm túc, hợp lý, được tổ chức, chỉ đạo bởi những người có trách nhiệm, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đại diện cho đa số dân tộc Việt Nam… mục đích của những người này và của dân tộc này ở nhiều điểm có thể so sánh với mục đích của cuộc kháng chiến của người Pháp”, “cuộc xung đột ở Việt Nam đã mở mắt cho tôi”. Ông bắt đầu phê phán chủ trương tái chiếm Đông Dương của Chính phủ Pháp: “Các cơ sở chính trị của Pháp trong việc này là xấu xa”. Tháng 1-1946, J.Lacouture và một số bạn bè như P.Devillers, P.About (P.Abu), B.Kroutchtein (B.Crút-khtain), M.Planchon (M.Blăng-xông),… xuất bản tờ tuần báo Paris - Saigon với chủ trương “tranh đấu cho hòa giải, hòa thuận, thương thuyết, giải phóng Việt Nam”. Từ đó, J.Lacouture tham gia viết cùng lúc cho hai tờ báo: buổi sáng viết cho tờ Caravelle ủng hộ chiến tranh, buổi chiều viết cho tờ Paris - Saigon cổ vũ hòa bình!
Ngày 15-2-1946, J.Lacouture ra Hà Nội để phỏng vấn các nhà lãnh đạo Việt Nam. Câu khẩu hiệu “Độc lập hay là chết” treo trên các đường phố Thủ đô đập vào mắt ông. Cuộc gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp để lại trong ông ấn tượng tốt về vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ có “khuôn mặt khá đẹp trai, tỏa sáng bởi trí thông minh và tính nhạy cảm đáng kinh ngạc… một nhà cách mạng, một người có thể tỏ ra cương quyết trong những chuyện lâu dài, đồng thời mềm dẻo trong thực thi, trong sách lược”. Hôm sau, ông tới Bắc Bộ Phủ. Và ông nhớ lại lần đầu gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi thấy một người gầy gò đi vào, bước nhẹ trên đôi dép mỏng… Tôi chưa từng gặp người nào giản dị đến thế, một người thánh thiện, tỏa ánh hào quang từ một nhân cách rất toàn diện… Ông có sức thiện cảm kỳ lạ. Đứng trước ông, người ta tan chảy. Ông có một kiểu dịu dàng, mong manh, có óc hài hước mà tôi không bao giờ tìm lại ở một người nào khác”. Vừa nghe J.Lacouture tự giới thiệu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vui vẻ nói: “A, cậu từ Paris đến hả? Những ai từ Paris đến đều là bạn của tôi! Chúng ta hãy nói về Paris, về văn chương, về lịch sử nước Pháp, về cuộc kháng chiến của Pháp…”. J.Lacouture thấy Người nói tiếng Pháp khá tốt, nhưng bằng một giọng rất lạ, giọng của người từng sống ở nhiều nước, đôi khi pha chút giọng Anh. J.Lacouture thấy ngạc nhiên: Người “từng bị cảnh sát Pháp truy nã trong suốt 20 năm bằng mọi phương tiện” thế nhưng “ngày hôm ấy, ông nói về nước Pháp với lòng nhiệt thành, tôi có thể nói là với một tình yêu thấm đượm”.
Các cuộc gặp gỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp để lại dấu ấn không phai mờ trong tâm trí J.Lacouture. Gần 30 năm sau, ông viết: “Hồ và Giáp là những người có tầm vóc lịch sử”, “quả thật, trong con mắt nhân dân Việt Nam, những người sáng lập [nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa] đại diện cho lòng yêu nước đích thực, nhiệt tình giải phóng”, “Những người ấy, những người lãnh đạo một cuộc cách mạng chống lại quyền lực của nước tôi, đã tiếp tôi - một đối thủ của họ - một cách thoải mái, lịch sự và cởi mở. Đó là kỷ niệm đầu tiên của tôi về những người đã làm ra tôi như ngày nay”, “Từ thời điểm đó, tôi xét đoán những người đối thoại với tôi theo chuẩn của người Việt Nam”, “những người Việt Nam đã sắp đặt cái nhìn của tôi trong phần còn lại của đời tôi và đã khiến tôi mãi mãi kính trọng những người đứng lên chống sự sỉ nhục, giải phóng khỏi sự bóc lột”. Trước khi trở lại Sài Gòn, J.Lacouture gặp Bảo Đại, lúc đó đang là Cố vấn tối cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy vị cựu hoàng này đã từng trải qua 10 năm niên thiếu tại Pháp, sau đó làm vua bù nhìn cho Pháp trong hai thập niên, nhưng theo J.Lacouture, buổi trò chuyện với Bảo Đại chỉ để lại “một ấn tượng rất xấu”.
Khi biết Chủ tịch Hồ Chí Minh đang đàm phán với J.Sainteny (G.Xanh-tơ-ni), Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Bắc Bộ, J.Lacouture rất vui: “Tổ chức cách mạng lớn hàng đầu mà tôi biết là Việt Minh đang thương thuyết với Pháp… Tôi thán phục Việt Minh cầm vũ khí trong tay, nhưng tôi càng thán phục Việt Minh nhiều hơn nữa khi họ thảo luận với Pháp, để ý tới thực tế và như vậy tiết kiệm được mạng người”. Theo J.Lacouture, “Việt Minh biểu hiện nguyện vọng giải phóng của dân tộc. Phải thương thuyết với những người của Việt Minh để xây dựng một hình thái hợp tác nào đó… Chúng ta có thể nói chuyện với những nhà lãnh đạo Việt Minh [vì] đó là những người nghiêm túc, tính cách đại diện của họ được khẳng định bằng nhiều dấu hiệu”.
Trong năm 1946, Việt Nam lần lượt đàm phán với Pháp tại Hà Nội, Đà Lạt và Fontainebleau (Phông-ten-nơ-bơ-lơ). Nhưng khi chữ ký trên các hiệp ước chưa ráo mực thì Pháp đã vi phạm. Hiệp ước sơ bộ ngày 6-3-1946 ghi rõ: “Về việc tái thống nhất ba kỳ, Chính phủ Pháp hứa sẽ chuẩn nhận quyết định của dân chúng được tham khảo bằng một cuộc trưng cầu dân ý” (P.Devillers, Lịch sử Việt Nam từ năm 1940 đến 1952 - Histoire du Vietnam de 1940 à 1952, NXB Seuil, Paris, 1952, tr.225). Tuy nhiên, Cao ủy Pháp tại Đông Dương là d’Argenlieu (Đác-giăng-li-ơ) không chịu tổ chức trưng cầu ý dân; mà ngược lại, ngày 26-3-1946 (tức 20 ngày sau khi ký Hiệp ước) đã thành lập “Cộng hòa tự trị Nam Kỳ”, tách Nam Bộ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Như nhà nghiên cứu A. Teulières (A. Tơ-li-rơ) nhận định trong cuốn Chiến tranh Việt Nam 1945 - 1975: “Việc dựng lên một nước Cộng hòa Nam Kỳ… đã phá hoại triển vọng thống nhất của Việt Nam” (A.Teulières, La guerre du Vietnam 1945-1975, NXB Lavauzelle, Paris, tr.44). Hoặc theo ghi nhận của B.Fall (B.Phan): “Mặt khác, ở Nam Bộ, quân đội Pháp tiếp tục các cuộc hành quân càn quét bất chấp các hiệp định công bố ngừng bắn trong cả nước” (B.Fall, Hai nước Việt Nam - Les deux Vietnam, NXB Payot, Paris, 1967, tr.95). Những hành động nêu trên nằm trong chủ trương của Pháp với Đông Dương, trong đó có Việt Nam. Ngày 15-8-1945, tướng de Gaulle (Đờ-gôn), Chủ tịch Chính phủ lâm thời Pháp, chỉ thị cho đô đốc d’Argenlieu: “Sứ mệnh hàng đầu của cao ủy Pháp ở Đông Dương là lập lại chủ quyền nước Pháp trên những lãnh thổ của Liên bang Đông Dương” (d’Argenlieu, Biên niên sử Đông Dương 1945-1947 - Chronique d’Indochine 1945-1947, NXB Albin Michel, Paris, 1985, tr.30).
(Còn nữa)
---------------
(*) Đầu đề là của Báo Nhân Dân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét