Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024

THẤY GÌ QUA SỰ VIỆC TÔM HÙM CHÉT HÀNG LOẠT TẠI NƠI ĐƯỢC MỆNH DANH LÀ “THỦ PHỦ TÔM HÙM”

 

Thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên - vùng đất được mệnh danh “thủ phủ tôm hùm” bước vào mùa vụ nuôi trồng thuỷ sản với nhiều hy vọng khởi sắc phát triển về kinh tế biển nhưng cũng nhiều lo toan, canh cánh trước những tác động bất thường của thời tiết, khí hậu đến những vùng biển nuôi tôm, cá.

Vào giữa tháng 5/2024, tôm hùm ở khu vực đầm Cù Mông bất ngờ chết hàng loạt trong nhiều ngày, với khoảng gần 70 tấn tôm hùm, 30 tấn cá nuôi bị chết, trong đó nhiều nhất là thôn Vịnh Hòa, chưa kể thủy sản ngoài tự nhiên cũng bị chết nhiều, đã gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho người nuôi, nhiều hộ gia đình lâm vào cảnh nợ nần điêu đứng.

Theo nhận định của cơ quan chuyên môn thì nguyên nhân là do: mật độ lồng nuôi quá dày, môi trường nuôi xấu kết hợp với diễn biến thời tiết nắng nóng oi bức, xuất hiện mưa dông; vùng nuôi nước bị phân tầng, tăng áp suất tầng đáy, thúc đẩy quá trình phân hủy chất hữu cơ, làm tiêu hao hàm lượng oxy hòa tan trong nước dẫn đến thủy sản nuôi bị chết; ngoài ra, có khả năng hàm lượng một số loại khí độc từ đáy đầm tăng đột ngột vượt ngưỡng (nước tại vùng nuôi có mùi thối nặng) cũng gây hiện tượng tôm hùm, cá bị chết... Qua đó, cho thấy nguyên nhân sâu xa xuất phát từ việc người dân nuôi tôm, cá tự phát theo kiểu “ai muốn nuôi thì thả nuôi”, không tuân theo quy hoạch bài bản và cũng không ai “tự giác kiểm soát, xử lý đối với lượng thức ăn, chất thải hàng ngày trên lồng bè nuôi.

Hiện tượng tôm, cá chết hàng loạt này không phải chỉ mới xảy ra, mà đã diễn ra từ nhiều năm trước và lặp lại hàng năm như một chu kỳ dù ít, dù nhiều. Đáng kể nhất là từ năm 2016, 2017, 2020, 2022 trên Vịnh Xuân Đài nhiều tôm nuôi trong các lồng bè cũng bất ngờ bị chết hàng loạt và gây thiệt hại vô cùng lớn cho người nuôi. Nguyên nhân được nhận định không khác gì những nguyên nhân nói trên, đáng lưu ý là những nguyên nhân xuất phát từ mật độ lồng cũng như mật độ con tôm trong lồng quá dày đặc; môi trường vùng nuôi đã bị ô nhiễm, tích tụ lượng lớn các chất hữu cơ; việc cắm cọc tre, sử dụng lốp xe để nuôi vẹm, hàu đã cản trở quá trình lưu thông nước, dẫn đến hiện tượng oxy trong nước rất thấp.

Tình trạng tôm hùm và các loài thuỷ sản khác chết hàng loạt diễn ra trong nhiều năm đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến đời sống kinh tế của người dân trong nghề, nhiều gia đình “bại sản” cũng từ đó; mặt khác cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển chung về kinh tế - xã hội của địa phương. Đã có không ít lần các đối tượng xấu với mục đích cản trở, chống đối chính quyền và việc hoạch định, triển khai chính sách phát triển kinh tế biển của địa phương đã lợi dụng sự việc tôm hùm chết để gây chia rẽ người dân với chính quyền địa phương, chúng đã xuyên tạc, tuyên truyền, lôi kéo, kích động người dân không ngừng nuôi tôm theo kiểu “tự phát”, “bất tuân” theo sự quản lý, hướng dẫn, định hướng, quy hoạch của chính quyền địa phương và cơ quan chức năng; chúng cho rằng chính quyền thiếu sự quan tâm, không tạo điều kiện, cản trở người dân làm ăn, nuôi trồng thuỷ sản; và khi người dân bị thiệt hại do tôm, cá chết thì chúng tiếp tục kích động người dân tụ tập đông người đòi chính quyền hỗ trợ thiệt hại không đúng theo quy định.

Việc người dân làm ăn phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản là điều đáng khích lệ với đặc điểm đặc thù của địa phương vùng biển như thị xã Sông Cầu, đúng với chủ trương, định hướng của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương. Tuy nhiên, mỗi người dân hãy suy ngẫm về nguyên nhân tôm hùm chết trong thời gian qua để cùng chung tay, đồng thuận với chính quyền địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả công tác quản lý, bố trí, quy hoạch vùng nuôi tôm hùm và tổ chức các hoạt động nuôi trồng một cách bài bản theo như chủ trương, định hướng, đề án, kế hoạch của tỉnh, thị xã và mỗi xã, phường đang triển khai. Có như vậy mới đảm bảo sự ổn định, phát triển kinh tế lâu dài, bền vững cho mỗi người dân làm nghề nuôi trồng thuỷ sản và sớm đưa thị xã Sông Cầu trở thành Thành phố trực thuộc tỉnh theo đúng với tiềm năng, thế mạnh của địa phương.

 

Đa nguyên chính trị không bao giờ là sự lựa chọn của Việt Nam

 

Kêu gọi Việt Nam đi theo con đường đa nguyên, đa đảng là luận điệu quen thuộc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Chúng luôn tìm cách kêu gọi Việt Nam hãy từ bỏ ý thức hệ Mác – Lênin, tiến lên theo con đường dân chủ đa nguyên. Cần khẳng định đây là luận điệu hết sức sai trái, sặc mùi phản động của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, cần đấu tranh, vạch trần, bác bỏ.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của nhân dân. Điều này được chính lịch sử dân tộc minh chứng. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tính mốc thời điểm từ ngày 01/9/1858, giới sử học thống kê đã có hơn 300 cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân nổ ra để phản kháng ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp xâm lược, nhưng cuối cùng tất cả hơn 300 cuộc đấu tranh đó đều thất bại, đều bị thực dân Pháp “dìm trong biển máu”. Chỉ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi, mở đầu là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa xã hội.

Lịch sử cũng minh chứng, trong giai đoạn 1945-1975, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cũng song song tồn tại hai đảng khác là Đảng Dân chủ Việt Nam (ra đời năm 1944) và Đảng Xã hội Việt Nam (ra đời năm 1946) cả hai đảng này đều ủng hộ, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, đến năm 1988, tự nhận thấy không còn vai trò gì với dân tộc nên đã tuyên bố tự giải tán.

Từ sau năm 1975 đến nay, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển toàn diện. Với bản lĩnh, trí tuệ của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, vượt qua khủng hoảng gay gắt về kinh tế - xã hội, trở thành một nước có trình độ phát triển trung bình. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện; dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng; quốc phòng, an ninh được giữ vững; văn hóa, xã hội có nhiều bước phát triển; vị thế, uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đạt được những tiêu chí cao nhất trong hoạt động chính trị của một đảng cầm quyền. Những thành tựu đó một lần nữa khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ có khả năng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước trên con đường đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Chúng ta đều biết rằng trên thế giới hiện nay, có không ít những nước đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển nhất; ngược lại, cũng có những nước chỉ một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ vẫn được bảo đảm. Như ở Việt Nam hiện nay, thực hiện chế độ một đảng duy nhất cầm quyền nhưng dân chủ luôn được đảm bảo và phát huy. Bởi vì mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đó cũng là ý chí, khát vọng cháy bỏng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn, chúng ta có đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm sự ổn định và phát triển, tiến tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, đa đảng và đa nguyên chính trị không bao giờ là lựa chọn của Việt Nam!

                                                                                N.Đ.K

Cần xử lý nghiêm hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật của ông Lương Mạnh Hà

        

          Thời gian qua, Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cấp ủy, chính quyền các cấp luôn quan tâm, tạo điều kiện để các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, đạo pháp. Các nhu cầu, hoạt động tôn giáo thuần túy, chính đáng đã được giải quyết kịp thời, như: Công nhận các tổ chức tôn giáo hoạt động hợp pháp, đồng ý cho Vatican được cử Đại diện thường trú và lập Văn phòng Đại diện thường trú, cho phép tổ chức các hoạt động tôn giáo theo đúng quy định pháp luật.

          Bên cạnh những chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo tin tưởng và thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, thì xuất hiện một số chức sắc, chức việc lợi dụng các hoạt động tự do tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, không những làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự mà còn làm xói mòn đức tin của tín đồ đối với các tôn giáo đang hoạt động chính thống. Điển hình là ông Lương Mạnh Hà (trước đây là Mục sư Quản nhiệm Chi hội Tin Lành Tuy Hòa, Phú Yên) do vi phạm pháp luật có hệ thống nên cơ quan chức năng không chấp thuận kết quả bầu lưu nhiệm chức vụ Quản nhiệm Chi hội này, nhưng ông Hà tiếp tục cư trú tại Chi hội, lợi dụng danh nghĩa Quản nhiệm Chi hội để chủ trì các buổi sinh hoạt tôn giáo thường kỳ. Dù rằng, nhiều lần bị chính quyền địa phương mời làm việc, lập biên bản, nhắc nhở, nhưng ông Hà luôn phớt lờ, tiếp tục thể hiện thái độ bất tuân pháp luật, nhất là từ khi ông Hà không có cơ sở pháp lý để “đòi lại trường Thiên Ân cũ” (nay là trường Mầm non Hoàng Yến, nơi Nhà nước đang sử dụng vào mục đích giáo dục).

          Gần đây nhất, ông Lương Mạnh Hà còn liên tiếp tự ý mời 02 Mục sư quốc tịch Mỹ đến Chi hội Tin Lành Tuy Hòa để hoạt động tôn giáo, vi phạm Điều 48 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, ảnh hưởng đến hoạt động sinh hoạt tôn giáo thuần túy của tín đồ Tin Lành tại địa phương. Vấn đề này, Ban Tôn giáo tỉnh Phú Yên đã có 02 văn bản số 164/BTG-NV, ngày 02/7/2024 và số 216/BTG-NV, ngày 28/8/2024 gửi Thường trực Tổng Liên hội Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đề nghị Giáo hội có biện pháp cụ thể chấn chỉnh đối với những vi phạm của Mục sư Lương Mạnh Hà, tránh gây bức xúc trong quần chúng Nhân dân.

          Thiết nghĩ, bản thân ông Lương Mạnh Hà cũng là một người công dân, nên phải có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và với cương vị là chức sắc, ông Hà càng phải gương mẫu, đi đầu, vận động tín đồ tại địa phương xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”. Nhưng những vi phạm trên đã đi ngược lại lời răn của Chúa, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của tín đồ và những chức sắc, chức việc chân chính.

           Do đó, ngoài việc người dân, nhất là chức sắc, chức việc, tín đồ Tin Lành cần nêu cao tinh thần cảnh giác, lên án, phê phán các hoạt động vi phạm của ông Lương Mạnh Hà, thì Tổng Liên hội và Ban đại diện Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) tại tỉnh Phú Yên cần sớm có biện pháp chấn chỉnh, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của ông Hà, xem xét không giới thiệu ông Hà tham gia ứng cử thành viên Ban đại diện Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) tại tỉnh Phú Yên, nhiệm kỳ 2025-2026.

          X.H

KẾT HÔN, SINH CON ĐỂ THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM VỚI GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI

 

Có thể thấy, khác với thế hệ trước, quan điểm của một bộ phận giới trẻ ngày nay về cách sống, định nghĩa về tình yêu, hôn nhân hiện đã có những thay đổi. Thay vì an cư rồi lạc nghiệp, giới trẻ đầu tư cho bản thân nhiều hơn. Nhiều bạn trẻ đã quyết định trì hoãn việc kết hôn, sinh con để tập trung phát triển sự nghiệp, tận hưởng quãng thời gian “vô lo”, “không ràng buộc” hoặc quan niệm nếu kết hôn, sinh con sớm sẽ mất đi tuổi thanh xuân trong một bộ phận nữ giới, nhất là số bạn trẻ thuộc thế hệ Gen Y, Gen Z.

Theo như chị B.T.N, 24 tuổi, trú Phường 9, Tp.Tuy Hòa chia sẻ: “Mình ngại sinh con là vì hiện tại ở độ tuổi của mình còn khá là trẻ, cần đi khám phá thế giới xung quanh và trải nghiệm nhiều hơn để xây đắp cho những ước mơ của mình. Theo bản thân mình nghĩ, ở giai đoạn hiện tại mà mình sinh con thì có thể là một gánh nặng. Tại vì, rất là nhiều vấn đề xung quanh mà bản thân mình còn chưa hoàn thiện được, thì mình nghĩ, mình chưa thể giành hết những thứ tốt nhất cho con mình được sinh ra sau này”. Bên cạnh đó, vấn nạn bạo lực gia đình cũng là một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến hội chứng “sợ kết hôn” ở giới trẻ. Ngoài ra, không ít người sau một vài mối tình kém may mắn, bị tổn thương lớn, đã mất hẳn niềm tin với hạnh phúc tình yêu và kể cả hôn nhân.

Xét dưới góc nhìn y học thì việc kết hôn muộn, sinh ít con, thậm chí không kết hôn và sinh con sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy, như: Chất lượng dân số có thể giảm do con dễ bị dị tật; phụ nữ khó thụ thai hơn khi qua khỏi độ tuổi từ 20 đến 29 tuổi... Kết hôn muộn đồng nghĩa với việc có con muộn, dẫn đến sự đối lập về suy nghĩ của hai thế hệ khi khoảng cách tuổi tác giữa cha mẹ và con cái quá lớn có thể gây ra nhiều mâu thuẫn trong gia đình. Điều này trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình nuôi dạy con cái.

Mặc khác, mức sinh thấp kéo dài (điển hình là các quốc gia như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore…) sẽ để lại nhiều hệ lụy như già hóa dân số nhanh kéo theo tình trạng thiếu hụt lực lượng lao động trầm trọng khiến nền kinh tế tăng trưởng chậm, kém phát triển ảnh hưởng đến việc thực hiện các vấn đề an sinh xã hội cho người dân.

Hiện các cấp các ngành đang rất quan tâm, triển khai các biện pháp hỗ trợ các cặp vợ chồng sinh đủ 2 con theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định 588/QĐ-TTg, ngày 28/4/2020 về phê duyệt “Chương trình Điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030”; trong đó, thí điểm hỗ trợ tư vấn, cung cấp dịch vụ hôn nhân và gia đình như: phát triển các câu lạc bộ kết bạn trăm năm, hỗ trợ nam, nữ thanh niên kết bạn; tư vấn sức khỏe trước khi kết hôn; khuyến khích nam, nữ kết hôn trước 30 tuổi không kết hôn muộn và sớm sinh con, phụ nữ sinh con thứ hai trước 35 tuổi...

Kết hôn và sinh con là vấn đề lớn ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước, không chỉ là câu chuyện của cá nhân, của mỗi gia đình. Do đó, các bạn trẻ cần cân nhắc trong việc kết hôn và sinh con để thể hiện trách nhiệm với gia đình và xã hội.

Gia Cát

 

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG VÀNG

             Ngày 10/5/2024, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Thông báo 213/TB- VPCP về kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái tại cuộc họp về các giải pháp quản lý thị trường vàng trong thời gian tới, trong đó có nội dung: “Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với thị trường vàng theo đúng quy định pháp luật; quản lý chặt chẽ hoạt động sản xuất và kinh doanh vàng miếng, kịp thời chấn chỉnh và xử lý nghiêm các vi phạm trong sản xuất, kinh doanh vàng miếng, nhất là các hành vi vi phạm pháp luật, buôn lậu, thẩm lậu, trục lợi, đầu cơ, thao túng, đẩy giá, cạnh tranh không đúng quy định...; trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật kịp thời chuyển ngay hồ sơ đến Bộ Công an và các cơ quan chức năng để xử lý theo quy định”. Trong thời gian qua, lực lượng Quản lý thị trường nói chung và Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã tích cực thực hiện chỉ đạo của đ/c Phó thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường biện pháp quản lý thị trường vàng; thực hiện nghiêm các biện pháp nghiệp vụ giám sát chặt chẽ liên quan đến hoạt động kinh doanh vàng trên địa bàn. Tính từ đầu năm đến ngày 14/5/2024, Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh đã kiểm tra 35 cơ sở kinh doanh vàng trên địa bàn, phát hiện và xử lý 21 vụ vi phạm, tạm giữ 719 đơn vị sản phẩm các mặt hàng là nhẫn, dây chuyền, lắc đeo tay, mặt dây chuyền không có hóa đơn chứng từ, không rõ nguồn gốc xuất xứ (có một số mặt hàng có dấu hiệu giả mạo nhãn hiệu) với tổng giá trị hơn 1,3 tỷ đồng. Việc kiểm tra nhằm kiểm soát tình hình mua bán, kinh doanh trong bối cảnh giá vàng tăng cao, nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng. Tuy nhiên, tổ chức phản động “Việt Tân” đã lợi dụng điều này để xuyên tạc rằng “Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh đã ăn cướp trắng trợn đối với 35 cơ sở kinh doanh vàng trên, việc yêu cầu chứng minh nguồn gốc, xuất xứ mặt hàng vàng là đánh đố dân và ngụy biện cho âm mưu chiếm đoạt tài sản của dân”. Đây là những luận điệu xuyên tạc, bởi vì:

Thứ nhất, tại Điều 8 Pháp lệnh Quản lý thị trường năm 2016 có quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng Quản lý thị trường, theo đó lực lượng Quản lý thị trường có chức năng kiểm tra việc chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi kiểm tra theo quy định; xử lý vi phạm hành chính; thu thập tài liệu, chứng cứ, lấy mẫu sản phẩm hàng hóa, tang vật, phương tiện có dấu hiệu vi phạm, trưng cầu giám định, kiểm nghiệm mẫu vật là hàng hóa, tài liệu, giấy tờ, vật chứng liên quan đến vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân. Như vậy, việc kiểm tra các cơ sở kinh doanh vàng là đúng theo chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Quản lý thị trường.

Thứ hai, việc yêu cầu các cơ sở kinh doanh vàng chứng minh nguồn gốc hàng hóa không phải là một hành động "đánh đố dân", đây là một biện pháp để đảm bảo mặt hàng vàng được bán ra thị trường là hợp pháp và rõ nguồn gốc, xuất xứ.

Thứ ba, lập luận cho rằng việc yêu cầu chứng minh nguồn gốc, xuất xứ của mặt hàng vàng là "ngụy biện cho âm mưu chiếm đoạt tài sản của dân" là thiếu căn cứ. Thay vào đó, việc tăng cường quản lý nhà nước đối với thị trường vàng góp phần ngăn chặn các hoạt động buôn lậu vàng, từ đó bảo vệ tài sản và quyền lợi của người tiêu dùng. Việc tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở kinh doanh vàng trong thời gian vừa qua đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước thị trường vàng, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, tuyên truyền, răn đe các trường hợp vi phạm.

            Vì vậy, mỗi người dân khi sử dụng mạng xã hội đặc biệt là Facebook, Tiktok,...cần phải nâng cao cảnh giác trước các luận điệu xuyên tạc của các tổ chức phản động để có cái nhìn đúng đắn về hoạt động quản lý đối với các cơ sở kinh doanh vàng nói riêng và hoạt động quản lý thị trường nói chung. Chủ động nhận biết, phòng ngừa, đấu tranh phản bác làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước./.

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG, GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG THỰC HIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ SÔNG CẦU

             Chính sách đất đai từ trước đến nay được Đảng, Nhà nước ta luôn xác định là một vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp. Việc thực hiện các chủ trương, dự án phát triển kinh tế, xã hội liên quan đất đai sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của một bộ phận quần chúng nhân dân liên quan đến các vấn đề xã hội (như: thiếu đất ở, đất sản xuất, thiếu việc làm, tâm lý bỡ ngỡ khi thay đổi di chuyển đến chổ ở mới,...) dẫn đến tình hình tranh chấp, khiếu kiện tiếp tục diễn biến phức tạp, gia tăng việc phát sinh các vụ việc mới và tái phát đối với những vụ việc chưa được giải quyết dứt điểm; đặc biệt là khiếu kiện về nguồn gốc đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng... Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị vẫn tiếp tục gia tăng lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của ta để gây hoài nghi, kích động tập trung khiếu kiện đông người, tiến hành các hoạt động chống đối, vu cáo Đảng, Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền.

Trong những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Phú Yên mặc dù chưa phát sinh “điểm nóng” phức tạp liên quan đến tranh chấp, khiếu kiện về đất đai khi triển khai thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội nhưng vẫn xảy ra không ít vụ việc có tính chất khiếu kiện kéo dài, vượt cấp; một số hộ dân bị kẻ xấu lợi dụng xúi dục, kích động gây cản trở, chống đối chính quyền, không chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng phục vụ phát triển kinh tế, gây mất an ninh, trật tự tại địa bàn trong thời gian dài.

Tại địa bàn thị xã Sông Cầu, Ban Thường vụ Thị ủy đã ban hành Nghị quyết số 11-CT/TU, ngày 21/12/2021 về tăng cường công tác dân vận khi Nhà nước thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện các Dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thị xã để lãnh đạo, chỉ đạo toàn hệ thống chính trị địa phương; đồng thời UBND thị xã cũng chủ động cụ thể hóa ban hành kế hoạch triển khai thực hiện, tổ chức thực hiện tạo cơ sở pháp lý cho hệ thống chính trị và địa phương thực hiện tốt công tác vận động, tuyên truyền người dân địa phương khi Nhà nước thu hồi đất để triển khai các Dự án kinh tế – xã hội. Qua đó, các tổ chức chính trị - xã hội từ thị xã đến cấp xã và cấp ủy, chính quyền địa phương đã tích cực phối hợp nhiều hình thức tuyên truyền (tuyên truyền tập trung, kết hợp tuyên truyền cá biệt) đối với các tổ chức, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng để thực hiện Dự án; đã tổ chức vận động hàng trăm hộ dân có đất bị ảnh hưởng từ các Dự án chấp hành việc thu hồi đã giao mặt bằng cho Nhà nước khi có quyết định thu hồi và tự nguyện tháo dỡ công trình xây dựng sai phạm để bàn giao đúng tiến độ theo quy định, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các Dự án, góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội của địa phương phát triển đi lên.

            Trong thời gian đến, công tác thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng để thực hiện các Dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Thị xã vẫn còn tiềm ẩn phức tạp, các phần tử xấu tiếp tục núp bóng dưới nhiều hình thức để tìm mọi cách chống phá chủ trương, chính sách đúng đắn này của Đảng, Nhà nước ta. Chúng tiếp tục lợi dụng việc tranh chấp, khiếu kiện của người dân với chính quyền hòng lừa gạt, lôi kéo người dân gây áp lực, cản trở, chống đối chính quyền trong giải quyết các vấn đề liên quan chính sách đất đai để hoạt động kích động chống phá chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Do vậy, mọi người dân chúng ta cần tỉnh táo, cảnh giác để nhận diện rõ bộ mặt xấu của chúng, toàn hệ thống chính trị và xã hội cần quan tâm quyết liệt nhiều hơn nữa trong công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật liên quan chính sách đất đai cho người dân trên địa bàn; trong đó lưu ý tuyên truyền, nâng cao nhận thức, vạch rõ âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, bọn tội phạm lợi dụng tranh chấp, khiếu kiện liên quan lĩnh vực này để xúi giục, kích động chống phá chính quyền, giúp họ nhận biết và tự phòng tránh, không vi phạm pháp luật...

MỘT SỐ ĐIỂM MỚI TRONG DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ, AN TOÀN GIAO THÔNG TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ; TRỪ ĐIỂM, PHỤC HỒI ĐIỂM GIÁY PHÉP LÁI XE

 

Việt Nam là một quốc gia điển hình ở khu vực và trên thế giới về sử dụng xe mô tô, xe gắn máy khi chiếm khoảng 95% tổng số xe cơ giới. Đây là loại phương tiện đi lại được nhiều người dân lựa chọn bởi dễ sử dụng, khả năng cơ động và giá thành hợp lý. Bên cạnh những lợi ích mà xe mô tô, xe gắn máy mang lại thì hiện nay, tình hình trật tự an toàn giao thông đang có nhiều diễn biến phức tạp, tình trạng vi phạm, coi thường pháp luật khi tham gia giao thông và các hành vi vi phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực giao thông đường bộ vẫn còn diễn ra phổ biến.

Với thực trạng vi phạm pháp luật trên lĩnh vực giao thông đường bộ, Bộ Công an đã đề xuất một số hành vi vi phạm được nêu tại Dự thảo Nghị định Quy định xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông trong lĩnh vực giao thông đường bộ; trừ điểm, phục hồi điểm Giấy phép lái xe (GPLX).

Theo đó, Điều 30 của Dự thảo nêu rõ chế tài xử phạt hành vi sản xuất, lắp ráp trái phép phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; sản xuất, bán biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ trái phép như sau:

- Phạt tiền từ 10 - 12 triệu đồng đối với cá nhân, từ 20 - 24 triệu đồng đối với tổ chức thực hiện hành vi bán biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ không phải là biển số do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sản xuất hoặc không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép.

- Phạt tiền từ 30 - 35 triệu đồng đối với cá nhân, từ 60 - 70 triệu đồng đối với tổ chức thực hiện hành vi sản xuất biển số trái phép hoặc sản xuất, lắp ráp trái phép phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.

Ngoài việc bị phạt tiền, cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm nêu trên còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu biển số, phương tiện sản xuất, lắp ráp trái phép. Đồng thời các cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi này còn bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc nộp lại số tiền thu lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính.

Dự thảo Nghị định cũng quy định việc trừ điểm GPLX. Đây là một điểm mới, phù hợp với thực tiễn, sự phát triển của đất nước. Dự thảo Nghị định quy định việc trừ điểm GPLX không phải là hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Có tổng cộng 189 hành vi, nhóm hành vi vi phạm bị trừ điểm GPLX. Hành vi vi phạm đã bị trừ điểm GPLX thì không áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng GPLX. Quy định trừ điểm GPLX vừa mang tính chất răn đe, vừa mang tính chất giáo dục, động viên chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Khi GPLX chưa bị trừ hết điểm, người lái xe vẫn tiếp tục được điều khiển phương tiện tham gia giao thông, không ảnh hưởng đến hoạt động tham gia giao thông, hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân. Quy định này thể hiện tính nhân văn của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, người dân cần chú ý đến số điểm còn lại của GPLX và 28 hành vi, nhóm hành vi bị trừ toàn bộ số điểm (12 điểm) của GPLX (khi bị trừ hết điểm của GPLX thì người có GPLX không được tham gia điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ theo GPLX đó).

Dự thảo Nghị định Quy định xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông trong lĩnh vực giao thông đường bộ; trừ điểm, phục hồi điểm Giấy phép lái xe nhằm thực hiện Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ có hiệu lực từ ngày 01/01/2025. Những nội dung đề xuất của Dự thảo là bước tiến quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý trật tự, an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam. Qua đó góp phần giảm thiểu tai nạn, ùn tắc giao thông, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

 

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2024

TỪ HÌNH ẢNH CÂY TRE TRUYỀN THỐNG ĐẾN ĐƯỜNG LỐI NGOẠI GIAO ĐẶC BIỆT

 Đường lối “Ngoại giao cây tre” được cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc đến lần đầu tiên tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29, diễn ra từ ngày 22 đến ngày 26 tháng 8 năm 2016 và thực sự trở thành đường lối ngoại giao đặc trưng, nổi bật của Việt Nam kể từ Hội nghị Đối ngoại toàn quốc diễn ra ngày 14 tháng 12 năm 2021. Hiện nay, “Ngoại giao cây tre” là thuật ngữ phổ biến khi nhắc đến nền ngoại giao Việt Nam, thể hiện rõ sự mạnh mẽ, tính linh hoạt, mềm dẻo nhưng kiên cường của đất nước, con người Việt Nam thông qua hình ảnh ẩn dụ cây tre: “Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.


Từ xa xưa, cây tre đã là người bạn thân thiết trong đời sống của người Việt. Tre có mặt ở khắp mọi miền đất nước. Về cấu tạo khoa học, tre thuộc loài cây thân cỏ có cấu trúc thân khá đặc biệt. Rễ tre là loại rễ chùm và mọc ra từ thân ngầm của tre giúp hút chất dinh dưỡng nuôi thân. Số lượng rễ có thể biến đổi theo điều kiện đất và kích thước, tuổi của cây tre. Thân ngầm đặc, thường nằm trong đất, là cơ quan phát rễ, có chức năng giữ cho cây đứng vững và cũng là cơ quan sinh sản của cây. Trên thân ngầm là thân chính, có nhiều lóng rỗng và đốt đặc. Mỗi lóng tre dài khoảng 40 đến 60cm. Tre là loài cực kỳ vững chãi trước mưa giông, bão lũ. Ở các làng quê Việt Nam vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước dày đặc những luỹ tre làng. Các lũy tre trồng dọc theo bờ sông, rễ đan vào nhau có tác dụng hạn chế xói lở đất, giảm tốc độ của dòng nước lũ đổ vào làng. Nếu có giông bão thì lũy tre làng lại làm nhiệm vụ giảm tốc dòng gió xoáy, tre vươn cao hơn các nóc nhà, thân tre dẻo dai, uốn lượn, che chở cho những nếp nhà tranh, mái lá đơn sơ.

Trong tâm thức của người Việt, cây tre là hiện thân của thời kỳ lập quốc, gắn liền với tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam, tiêu biểu phải kể đến truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân. Như vậy, cây tre đã xuất hiện và gắn bó với người Việt từ thời cổ đại hàng nghìn năm trước Công nguyên. Theo dòng lịch sử, tre đánh giặc, gìn giữ quê hương “Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”. Tre mọc thành cụm, thành lũy tượng trưng cho tính cộng đồng, lũy tre làng bền chặt như sự đoàn kết, keo sơn, đùm bọc lẫn nhau của dân tộc ta. Và khi tre già măng mọc lại hàm chứa biểu trưng cho tính truyền thống, kế thừa tiếp nối của các thế hệ người Việt.

          Ngay từ những ngày đầu khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú trọng tới đường lối ngoại giao của Việt Nam với nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, mục tiêu là phải đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Qua hoạt động và chính sách đối ngoại, Người muốn gửi đến các nước trên thế giới thông điệp khẳng định: Việt Nam là một nước độc lập, có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình và hữu nghị với các nước. Mặt khác, Người kiên quyết chống những hành động nóng vội, ảo tưởng, trông chờ vào sự giúp đỡ của bên ngoài, Người yêu cầu ngành ngoại giao phải luôn luôn khôn khéo, tỉnh táo để có những đối sách thích hợp đảm bảo lợi ích của quốc gia, dân tộc trước mắt và lâu dài.

Từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, tình hình thế giới và khu vực đã trải qua những biến động lớn, bên cạnh cơ hội, thuận lợi, cũng xuất hiện nhiều khó khăn, thách thức mới. Cạnh tranh nước lớn diễn ra gay gắt, nguy cơ chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột và tình hình căng thẳng, bất ổn trên thế giới gia tăng; kinh tế thế giới phục hồi chậm, an ninh truyền thống và phi truyền thống đan xen ngày càng phức tạp. Trong bối cảnh đó, hoạt động đối ngoại diễn ra hết sức sôi động, liên tục trong những năm qua đã minh chứng cho uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; mạng lưới các mối quan hệ đối tác của Việt Nam tiếp tục được củng cố và mở rộng, từng bước đi vào chiều sâu, gia tăng điểm đồng, đan xen lợi ích; chúng ta đã thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới điển hình như “CPTPP, EVFTA, RCEP, AFTA”. Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với đủ 5 Ủy viên Thường trực và các thành viên của Liên hợp quốc; Kênh Đảng, với 247 chính đảng ở 111 quốc gia; Kênh Quốc hội, với hơn 140 nước; Kênh nhân dân, với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài. Việt Nam được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, 2023 - 2025; Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017; Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) 2016 - 2018…. "Chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế như ngày nay".

Những năm gần đây, các thế lực thù địch và bọn phản động vẫn luôn âm mưu phủ nhận giá trị lịch sử và nhân văn của “Ngoại giao cây tre Việt Nam”, chúng thường xuyên đưa ra những luận điệu xuyên tạc, kích động, cho rằng đường lối “ngoại giao cây tre”“gió chiều nào theo chiều nấy”, “không có chính kiến, thiếu lập trường nhất quán”, “bắt cá hai tay”. Chúng lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin, mạng xã hội để lan truyền, đăng tải nhiều thông tin sai sự thật, hạ thấp vị thế, uy tín nước ta trên trường quốc tế, gây ra sự hiểu sai về đất nước, con người Việt Nam nhằm tìm cách cô lập Việt Nam với thế giới.

Sinh ra và lớn lên trong hòa bình, nền hòa bình có được từ biết bao xương máu, nước mắt, trí tuệ của người Việt Nam, thế hệ trẻ là những búp măng non, những thân tre nhỏ sẽ dần thay thế, kế thừa thành tựu của lớp cha ông đi trước; là thế hệ nắm giữ tương lai, vận mệnh của đất nước, dân tộc. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, chúng ta cần phải nhìn nhận rõ, luôn tự hào và tuyệt đối tin tưởng vào đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta; tự giác học tập nâng cao trình độ và trau dồi kiến thức thực tiễn, từ đó “tăng cường sức đề kháng”, “miễn dịch” của chính mình trước âm mưu của các thế lực thù địch.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TIẾP TỤC SOI SÁNG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. 

Đây là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về mục tiêu xây dựng về một đất nước Việt Nam hòa bình và thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Để đạt mục tiêu đó, con đường độc lập của dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu và con đường này đúng theo lý luận Mác- Lê nin; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước cách mạng, xác định lực lượng cách mạng là toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước, xây dựng con người Việt Nam có năng lực và phẩm chất đạo đức cách mạng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên cơ sở quan hệ quốc tế hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển; với phương pháp cách mạng phù hợp.

          Hiện nay, mặc dù đất nước đã hoàn toàn độc lập nhưng tình hình thế giới vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Các nền kinh tế trên toàn cầu vừa bị suy thoái sau đại dịch COVID-19, lại tiếp tục bị ảnh hưởng từ các cuộc xung đột vũ trang như: Nga-Ukraine, Hamas-Israel, bất ổn chính trị tại Myanmar và Bangladesh…Các nước lớn đang điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt, quyết liệt, tác động mạnh đến việc sản xuất và phân phối toàn cầu. 

Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, đất nước ta đang phải đối diện với những khó khăn, thử thách và trở ngại không hề nhỏ. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, lại phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch và khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết, đồng thời là những thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời gian tới. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, và tư tưởng của Người đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta. Tại Đại hội VI (tháng 12-1986) - Đại hội khởi xướng công cuộc đổi mới - Đảng đã nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Tại Đại hội VII (tháng 6-1991), thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta lần đầu tiên đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào văn kiện và khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”, và tổng kết thành bài học: “Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đại hội IX của Đảng khẳng định, những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII nêu lên, vẫn còn nguyên giá trị, mà bài học hàng đầu vẫn là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII, XIII của Đảng tiếp tục khẳng định Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

 Với giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi đường, chỉ lối cho Đảng và dân tộc ta trên con đường đổi mới, cần quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo và phát huy những giá trị to lớn trong tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới của Người với những nội dung cơ bản sau đây:

- Đổi mới phải kiên định, vững vàng và không ngừng sáng tạo xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Muốn đổi mới thắng lợi, phải kiên định lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định, vững vàng, không dao động, “đổi mới” không “đổi màu”, không rơi vào giáo điều, bảo thủ và phải không ngừng sáng tạo. Kết hợp tổng kết sâu sắc, toàn diện thực tiễn đổi mới của đất nước với nắm bắt, dự báo chính xác những chuyển biến mau lẹ của thời cuộc, những xu hướng phát triển mới của thế giới, cập nhật những tri thức mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những bài học thành công của các nước phù hợp với điều kiện nước ta, không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, làm cho đường lối đổi mới phản ánh, giải quyết đúng những đòi hỏi khách quan của thực tiễn đất nước; đồng thời, phù hợp với xu thế thời đại.

- Đổi mới, phát triển là một tiến trình vận động khách quan của lịch sử, là nhu cầu, khát vọng của nhân loại. Toàn cầu hóa và sự phát triển bùng nổ công nghệ thông tin, cùng hệ thống kết cấu hạ tầng toàn cầu, làm cho các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, tùy thuộc lẫn nhau; hợp tác và hội nhập quốc tế sâu rộng trở thành một xu thế lớn không thể đảo ngược. Tư tưởng và sự chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự gắn bó chặt chẽ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, về việc tăng cường hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên cơ sở hòa bình, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi,.. vẫn còn nguyên vẹn giá trị định hướng con đường đổi mới. Hội nhập nhưng phải giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính.

- Đổi mới là một quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ, muốn giành thắng lợi, Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng với tư cách là lực lượng lãnh đạo phải tự đổi mới, nêu gương đổi mới, trước hết là đổi mới phong cách tư duy, phong cách lãnh đạo, để phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương lớn, truyền lại bài học lớn về phong cách đổi mới; nhạy bén nắm bắt diễn biến lịch sử, chủ động tranh thủ thời cơ, giữ vững nguyên tắc và mạnh dạn sáng tạo, kịp thời đổi mới, gắn liền lý luận với thực tiễn.

- Đổi mới phải gắn liền phát triển đồng bộ, toàn diện các mặt của đời sống xã hội chính là sự nhận thức một cách đúng đắn về chủ nghĩa xã hội; về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng những hình thức, bước đi, biện pháp phù hợp và có hiệu quả hơn. Công cuộc đổi mới cần tiến hành một cách toàn diện, đồng bộ, từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn, phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, trước hết là kinh tế, đổi mới chính trị từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Phát triển toàn diện các mặt của đời sống xã hội phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân theo tinh thần “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”.

- Nền tảng đạo đức của đổi mới là lợi ích tối cao của dân tộc, của nhân dân, hạnh phúc của con người. Lấy độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất và sự giàu mạnh của quốc gia làm mục đích trên hết, trước hết; lấy quyền làm chủ và lợi ích của nhân dân, sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của con người Việt Nam làm đạo lý đổi mới. Nhân dân là chủ thể của đổi mới và là người thụ hưởng thành quả của đổi mới; con người là mục tiêu và động lực của đổi mới. Đó chính là bản chất nhân đạo, nhân văn của đổi mới theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

- Đổi mới cần phát triển xã hội theo hướng nhân văn, lấy con người làm trung tâm, xem phát triển con người - cả cá nhân và cộng đồng - vừa là mục tiêu cao nhất vừa là động lực to lớn nhất của tiến trình đổi mới ở nước ta. Phát triển xã hội đòi hỏi phải đáp ứng ngày một tốt hơn những nhu cầu cơ bản trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người. Trước hết, đó là những nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, phòng chữa bệnh, xây dựng gia đình, nuôi dạy con cái... bảo đảm cho con người có thể sống như những sinh thể cấu thành xã hội. Những nhu cầu nêu trên không thể tự thỏa mãn mà phải thông qua lao động sản xuất của chính con người để tạo ra của cải vật chất. Tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế do đó có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển xã hội.