1. Nhận thức đúng về nhân quyền
Ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “quyền con người”, còn có thuật
ngữ “nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh
“human rights”, mà nếu dịch trực tiếp sang tiếng Việt là quyền con người; còn
nếu dịch qua Hán - Việt là nhân quyền. Xét về mặt ngôn ngữ học, theo Đại Từ
điển tiếng Việt, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa.
Nhân quyền, ở góc độ khái quát nhất, theo Liên hợp quốc, có thể
hiểu là những gì bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được bảo đảm thì
chúng ta sẽ không thể sống như một con người. Tại Việt Nam, một số định nghĩa
về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng
không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu
là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi
nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Dù quy định theo cách nào thì quyền con người, quyền công dân
cũng là một nội dung quan trọng, có tính xuyên suốt trong hiến pháp của các
quốc gia. Một công trình nước ngoài, trên cơ sở khảo cứu 420 bản hiến pháp của
các quốc gia trên thế giới, đã thống kê có đến gần 60 quyền con người được chế
định trong hiến pháp các nước và luật nhân quyền quốc tế. Cụ thể: 1/ Quyền
sống; 2/ Tự do biểu đạt; 3/ Tự do tôn giáo, tín ngưỡng; 4/ Tự do hội họp; 5/ Tự
do lập hội; 6/ Tự do báo chí…vv. Như vậy tự do ngôn luận, tự do báo chí là
quyền công dân được pháp luật quy định.
2. Luật quốc tế quy định về
nhân quyền, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí
Gần
đây, các hoạt động tìm hiểu, thảo luận về quyền con người diễn ra ngày càng sôi
nổi. Bản “Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền” được phổ biến nhiều hơn đến mọi người.
Người dân được hiểu rõ hơn các quyền của mình và yêu cầu các cán bộ công chức,
cơ quan nhà nước tôn trọng các nghĩa vụ về nhân quyền. Các cơ quan nhà nước
cũng hiểu rõ hơn và thực thi các biện pháp lập pháp, hành pháp và tư pháp để
bảo vệ người dân, tạo dựng một xã hội lành mạnh, phát triển.
Tuyên
ngôn quốc tế nhân quyền của Liên hợp quốc (viết tắt là UDHR, được Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày
10/12/1948) không phải là một điều ước quốc tế nên không
đòi hỏi các quốc gia phải ký kết hay gia nhập. Tuyên ngôn là một văn kiện chính
trị, thể hiện cam kết chung của các quốc gia, đặc biệt là các thành viên của
Liên Hợp Quốc (Việt Nam tham gia LHQ năm 1977). Theo thời gian, Tuyên ngôn Quốc
tế nhân quyền (viết tắt là UDHR) trở thành luật tập quán, tức là về mặt pháp lý
nó có giá trị thấp hơn các điều ước ràng buộc pháp lý. Tuyên ngôn Quốc tế nhân
quyền và 2 công ước: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (viết
tắt là ICCPR, Được thông qua và để
ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 2200 (XXI)
ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Có hiệu lực ngày 23/3/1976, căn
cứ theo điều 49, Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (viết tắt
là ICESCR, được
thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết
số 2200A (XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Có hiệu lực ngày
03/01/1976, căn cứ theo Điều 27, Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982) làm thành trụ cột của luật nhân quyền quốc tế. Ba văn kiện này đôi
khi được gọi chung là Bộ luật nhân quyền quốc tế.
Điều 29 của Tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền của Liên hợp quốc quy định rõ: “1.
Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng là nơi duy nhất mà ở đó nhân
cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ. 2. Khi hưởng thụ các
quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật
định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các
quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng
về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”. Vì thế khi
hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do
luật định - và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn
trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn
những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung
trong một xã hội dân chủ.
Tại Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 được hơn 150 quốc gia tán thành và phê
chuẩn, hàng loạt các quyền
dân sự, chính trị như quyền tự do đi lại, lựa chọn nơi cư trú, quyền tự do tư
tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội,
quyền hội họp hòa bình... đều là các quyền bị hạn chế và sự hạn chế đó phải do
pháp luật quy định. Ngoài các lý do để bảo vệ quyền và tự do của người
khác, trật tự công cộng, đạo đức xã hội và phúc lợi chung, các quyền này còn bị
hạn chế bởi sự cần thiết để bảo vệ an ninh, lợi ích quốc gia, an toàn và trật
tự công cộng... Như tại mục 3, Điều 19 của Công ước ghi rõ: “3. Việc thực hiện những quyền quy định tại
khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc
này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này
phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: a) Tôn trọng các quyền
hoặc uy tín của người khác, b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng,
sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội.” Tại Điều 20 của Công ước còn quy định một hạn
chế cần thiết của quyền tự do biểu đạt; theo đó “1. Mọi hình thức tuyên truyền cho chiến tranh đều bị pháp
luật nghiêm cấm. 2. Mọi chủ trương gây hằn thù dân tộc, chủng tộc hoặc
tôn giáo để kích động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch, hoặc bạo
lực đều phải bị pháp luật nghiêm cấm.”
Điều 10 của Công ước bảo vệ
Nhân quyền và các quyền Tự do căn bản của châu Âu (còn gọi là Công ước châu Âu
về Nhân quyền, có hiệu lực từ ngày 03/9/1953) ghi nhận một danh sách dài các
hạn chế của tự do ngôn luận, vì việc thực hiện nó có thể là đối tượng của các
điều kiện, giới hạn, hay hình phạt như trong Luật và cần thiết trong một xã hội
dân chủ. Những giới hạn đó có thể được biện minh bởi: các lợi ích an ninh quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ hay an toàn công cộng; ngăn ngừa rối loạn, tội phạm, bảo
vệ sức khỏe hay đạo đức; bảo vệ danh dự và quyền của người khác; ngăn ngừa tiết
lộ thông tin mật, hay duy trì quyền lực và tính công bằng của tư pháp.
3. Luật pháp các nước quy định về tự do ngôn luận, tự do báo chí
Trong xã hội
tư bản, báo chí hoạt động trong môi trường của pháp luật tư sản. Cái mà họ gọi
là “tự do báo chí” đã bị cắt xén để phục vụ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Xin
nêu vài ví dụ tiêu biểu:
Theo
quy định của Hiến pháp Mỹ thì Quốc hội không có quyền ban hành bất cứ văn bản
nào nhằm hạn chế tự do báo chí, tự do ngôn luận. Tuy nhiên, đến năm 1798, Quốc
hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Phản loạn quy định “việc viết, in, phát biểu hay
phổ biến… mọi văn bản sai sự thực, có tính chất xúc phạm hay ác ý chống chính
quyền đều là tội.”
Bên cạnh đó, Điều 2385 Chương 115 - Bộ luật Hình sự Mỹ, nghiêm cấm mọi hành vi “in ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực.”
Cũng theo Hiến pháp Mỹ thì Tòa án tối cao được phép đưa ra những trừng phạt pháp lý khi phát hiện báo chí có hành vi phá hoại, lăng nhục, vu khống, xúc xiểm nhà nước, xã hội và cá nhân. Vì thế, hàng năm có hàng trăm các văn bản lớn nhỏ khác nhau được Tòa án tối cao ban hành để điều hành và kiểm soát báo chí ở Mỹ. Ngoài ra, theo Hiến pháp của các bang, việc truy tố đối với tội lạm dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cũng được coi là hợp pháp. Như vậy, tuy quốc hội Mỹ không được phép ban hành các văn bản hạn chế tự do báo chí, nhưng kể từ năm 1787, tòa án tối cao và chính quyền các bang đã ban hành hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật làm công cụ điều phối tự do thông tin báo chí, chứ không phải tự do vô hạn, tự do hoàn hảo như một số người lầm tưởng.
Pháp luật về tự do ngôn luận của nước Pháp đưa ra các chế tài
nghiêm khắc trừng trị người nào lạm dụng quyền tự do ngôn luận làm ảnh hưởng
tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Trước hết đó là việc bảo vệ nhân
phẩm con người, chống lại việc vu khống, bôi nhọ (Điều 29 Luật 1881), bảo vệ,
chống lại việc xâm phạm đời tư (Điều 9 Bộ luật Dân sự), chống phân biệt chủng
tộc, tôn giáo (Điều 32 Luật 1881), kích động bạo lực, gây hận thù (Điều 24 Luật
1881)… Ngoài ra, còn đưa ra các quy định nhằm bảo vệ một số lợi ích cơ bản của
quốc gia, như cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia (Điều
413 - 9 Luật Hình sự). Thực tế ở Pháp người ta đã chứng kiến nhiều vấn đề xã hội phức
tạp, mà một trong những nguyên nhân sâu xa là từ hệ lụy (trực tiếp hoặc gián
tiếp) của việc lạm dụng cái gọi là “tự do báo chí không giới hạn”. Điển hình,
như: vụ việc tình báo Pháp tổ chức do thám, nghe trộm điện thoại của các nhà
báo thuộc Nhật báo Le Monde năm 2011. Bộ phim “Sự ngây thơ của các tín đồ Hồi
giáo” ra đời năm 2012 ở Mỹ, được cho là báng bổ đạo Hồi đã tạo ra làn sóng bạo
động tại hàng chục quốc gia Hồi giáo trên toàn thế giới. Ngày 07-01-2015 vừa
qua được cho là ngày đen tối nhất trong lịch sử báo chí Pháp với sự kiện bọn
khủng bố đã nổ súng sát hại 12 người tại Tòa soạn báo Charlie Hebdo vì lý do
tôn giáo. Trước sự kiện thảm sát tại Tòa soạn báo Charlie Hebdo, Giáo hoàng
Francis đã cho rằng: “Tự do báo chí không phải vô giới hạn khi tự do đó xúc
phạm tới tín ngưỡng tôn giáo”.
Ở
CHLB Ðức, theo quy định của Ðiều 5 Ðạo luật cơ bản (tức Hiến pháp) thì mọi
người có quyền thể hiện quan điểm của mình qua hình ảnh, lời phát biểu, bài
viết trên sách báo, hay phát tán qua phát thanh, truyền hình; vì tự do báo chí
là một phần của tự do ngôn luận. Trong đó cũng ghi rõ "không có sự kiểm
duyệt", nhưng điều đó không có nghĩa, người viết hoàn toàn tự do, không
cần phải quan tâm tới các quy định pháp lý. Theo các nguyên tắc cơ bản của Hiến
pháp CHLB Ðức, các quy định cụ thể về tự do báo chí lại thuộc về thẩm quyền của
các tiểu bang. Vì vậy, mỗi tiểu bang đều có Luật Báo chí (Pressegesetz) riêng.
Cơ sở pháp lý trực tiếp nhất của Luật Báo chí là Hiến pháp tiểu bang. Vì thế,
Luật Báo chí không chỉ ghi cụ thể các quyền lợi, trách nhiệm mà cả giới hạn của
báo chí phù hợp với hoàn cảnh đặc thù của khu vực mình. Thí dụ, Ðiều 1 Luật Báo
chí ở tiểu bang Ba-va-ri-a ghi rõ: Tự do ngôn luận và báo chí được bảo đảm qua
các Ðiều 110, 111, 112 Hiến pháp Ba-va-ri-a. Cần lưu ý, trong khoản 1 Ðiều 110
của Hiến pháp Ba-va-ri-a viết về tự do ngôn luận và báo chí, song trong khoản 2
lại ghi rõ: Chống lại các loại văn chương bẩn thỉu và độc hại là nhiệm vụ của
Nhà nước và các cơ quan địa phương. Luật Báo chí của các tiểu bang tuy có một
số điểm khác nhau, nhưng có một điểm rất giống nhau, như ở Tiểu bang
Ba-va-ri-a, điểm đó được ghi trong Ðiều 117 của Hiến pháp: Sự hưởng thụ tự do
cho mỗi người đều phụ thuộc vào việc tất cả mọi người thực hiện nghĩa vụ trung
thành với Nhân dân, Hiến pháp, Nhà nước và Luật pháp.
Ðể
cụ thể hóa giới hạn về quyền tự do báo chí, có nhiều quy định cụ thể được ban
hành trong các bộ luật của Liên bang. Bên cạnh Công an hình sự liên bang và
tiểu bang, ở CHLB Ðức còn có lực lượng của các cơ quan bảo vệ Hiến pháp cấp
liên bang và tiểu bang. Ðây là các cơ quan tình báo đối nội. Trong các cơ quan
này, có một lực lượng không nhỏ hằng ngày chuyên đọc sách báo, tin tức do các
cá nhân và tổ chức phát tán trên mạng để thu thập tin tức và bằng chứng, khi
cần thiết sẽ phục vụ cho các thủ tục xét xử hình sự. Ðể ngăn ngừa những mối
nguy hiểm từ các phương tiện truyền thông đối với thanh, thiếu niên, một cơ
quan thanh tra liên bang đã được thành lập. Trừ các nhật báo và tạp chí chính
trị, các ấn phẩm còn lại đều có thể bị cơ quan này kiểm duyệt và xử lý theo quy
định.
Nhìn
sang một nước khác - I-ta-li-a, theo đánh giá của một số tổ chức quốc tế thì
tình hình tự do báo chí trong các năm gần đây khá phức tạp. Thị trường báo chí
được chia thành bốn nhóm, gồm: nhóm Editoriale L'Espresso (La Republica), nhóm
Ri-dô-li với chủ sở hữu chính là gia đình Ác-nen-li Phi-át (La Stampa), nhóm
các nhà xuất bản độc lập (II Giorno) và nhóm Béc-lu-xcô-ni. Nhiều người lo ngại
trước "tiến trình Béc-lu-xcô-ni hóa" toàn bộ hệ thống truyền thông ở
I-ta-li-a. Về phần mình, các chính phủ ở I-ta-li-a cũng tìm cách gây áp lực với
báo chí. Thí dụ, năm 2011 một dự thảo luật được đưa ra bàn bạc, theo đó thì nhà
báo (rất khác với các cá nhân khác) có thể bị phạt tù vì tội vu khống. Ðặc biệt
là ở I-ta-li-a nhiều nhà báo đã bị đe dọa đến tính mạng, nếu họ viết về tội
phạm và hoạt động của ma-phi-a.
Luật
pháp của các nước khác, về nguyên tắc cũng công nhận quyền tự do báo chí, tự do
ngôn luận, nhưng không coi quyền này là “tự do tuyệt đối.” Điều 36 Hiến pháp
Cộng hòa Kyrgyzstan mặc dù tuyên bố “truyền thông tự do,” nhưng đã cụ thể hóa
tuyên bố này trong Điều 17: “Hiến pháp và Luật của nước Cộng hòa Kyrgyzstan hạn
chế đối với việc thực hiện các quyền và quyền tự do được cho phép chỉ trong
trường hợp nhằm đảm bảo quyền và tự do của người khác, đảm bảo an toàn và trật
tự xã hội, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ trật tự hiến pháp.
Nhưng trong quá trình thực hiện, tinh thần về các quyền và các quyền tự do hợp hiến không được phép bị ảnh hưởng.” Điều 8 Hiến pháp Senegal thừa nhận việc đảm bảo quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, song cũng coi các quyền này là “đối tượng điều chỉnh và bị hạn chế bởi luật và các quy định pháp luật.” Điều này hoàn toàn phù hợp với nội dung “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền” (năm 194 8) của Liên hợp quốc đã được khẳng định tại Điều 29: “Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.”
Tuy
nhiên, vì sao các quốc gia ở châu Á thường hay bị một số tổ chức ở phương Tây
cho rằng không có tự do báo chí, hoặc có mức độ xếp hạng thấp? Như đã nói ở
trên, cách tiếp cận về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận theo khuôn khổ pháp
luật khác nhau và sự khác biệt về văn hóa đã dẫn đến cách nhìn nhận áp đặt đó.
Ở
Singapore năm 1988, khi chính quyền của Thủ tướng Lý Quang Diệu bị chỉ trích là
hạn chế quyền tự do báo chí, ông đã xuất hiện trước Hiệp hội Biên tập Mỹ và
phát biểu: Chúng tôi cho phép các nhà báo người Mỹ tới Singapore để đưa tin về
Singapore cho người dân nước họ biết. Nhưng chúng tôi không thể cho phép họ
chiếm vai trò ở Singapore như truyền thông Mỹ có ở Mỹ. Đó là vai trò giám sát,
đối nghịch và thẩm tra chính quyền.
Singapore
là quốc gia non trẻ, từ điểm xuất phát hầu như là một con số 0 (zero) tròn
trĩnh đã phát triển vượt bậc khiến cả thế giới phải khâm phục, tại sao lại phải
đối diện với sự chỉ trích mạnh mẽ của phương Tây về quyền tự do, trong đó có tự
do báo chí? Trên thực tế, sự phát triển của quốc gia này lại như là một minh
chứng cho sự khác biệt về cách tiếp cận các quyền phổ quát của con người mà
trước hết cần thừa nhận các quyền ấy phụ thuộc vào hệ thống pháp luật riêng và
sự khác biệt văn hóa.
Những
ví dụ nêu trên cho thấy, không một quốc gia nào trên thế giới coi quyền “tự do
báo chí,” “tự do ngôn luận” là tuyệt đối.
4. Tự do báo chí ở Việt Nam
Trên tinh
thần chung đó, ngày nay Hiến pháp của hầu hết các quốc gia đều quy định quyền
tự do báo chí. Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ đã quy định quyền tự do báo
chí. Tại Điều 25, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013)
quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội
họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
Điều 2 Luật Báo chí năm
1989 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Báo chí (ngày 12-6-1999) quy
định Bảo đảm quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngôn luận trên báo chí: “Nhà nước tạo điều
kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận
trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình. Báo chí, nhà báo
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ ; không một tổ
chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai
được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Báo chí không bị kiểm duyệt
trước khi in, phát sóng.”
Có thể khẳng định Việt Nam là quốc gia tự do báo chí. Tất cả các cơ quan, đoàn thể
ở Trung ương và các địa phương đều có báo hoặc tạp chí, có địa phương có gần 30
cơ quan báo chí; báo chí còn được phân theo giới tính, lứa tuổi: từ nhi đồng,
thiếu niên, thanh niên, người cao tuổi đều có báo và tạp chí của mình.
Hiện
nay, cả nước có 845 cơ quan báo chí in với 1.118 ấn phẩm, một hãng thông tấn
quốc gia, 67 đài phát thanh - truyền hình, số lượng các kênh chương trình phát
thanh - truyền trình quảng bá là 179 kênh, số lượng đơn vị cung cấp truyền hình
cáp là 33 đơn vị, 98 cơ quan báo chí điện tử và 1.525 trang thông tin điện tử
tổng hợp; 420 mạng xã hội được phép hoạt động với lượng truy cập rất cao, ảnh
hưởng ngày càng lớn về thông tin.
Trước
sự phát triển của Internet, các mạng xã hội và nhiều ứng dụng khác, cho đến nay
các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam không ngăn chặn và can thiệp, bảo đảm
quyền tự do thông tin của mọi công dân. Hành lang pháp lý bao gồm Hiến pháp,
luật và các nghị định, thông tư liên quan đến quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận ngày càng tiếp tục hoàn thiện hơn, phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước và tình hình phát triển của báo chí.
Các
cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội,
nghề nghiệp trở thành diễn đàn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mọi tầng lớp
nhân dân. Quan trọng hơn nữa, báo chí Việt Nam không chỉ đóng vai trò tuyên
truyền, phổ biến mà còn phản biện, góp ý cho đường lối, chủ trương của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc và sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc. Còn đối với nhà báo, ngoài trách nhiệm
thông tin đúng sự thật, vai trò công dân của nhà báo phải được đặt lên hàng đầu
với sứ mệnh đặc biệt đối với lợi ích quốc gia, dân tộc.
Vì
vậy, tự do báo chí không phải là vô hạn. Quyền tự do đó phải được đặt trong
khuôn khổ của pháp luật, phục vụ lợi ích của quốc gia, dân tộc; không xâm phạm
đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
RẠNG ĐÔNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét