Quyền tự do ngôn luận là quyền của con người trong việc tự do tìm kiếm, tiếp
nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến của mình đối với mọi lĩnh vực đời sống xã
hội dưới hình thức bằng lời nói, văn bản (viết tay hoặc đánh máy) hoặc dưới bản
điện tử (email, facebook, zalo...) hoặc dưới nhiều hình thức khác (tranh vẽ, biểu
diễn nghệ thuật…) Mọi người dân ở Việt Nam đều có thể tự do chia sẻ, bày tỏ
thông tin, quan điểm cá nhân theo quy định của pháp luật thông qua internet, nhất
là mạng xã hội.
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc
thể hiện tự do ngôn luận có nhiều cách thể hiện. Mạng xã hội trở thành công cụ
phổ biến để mọi cá nhân, tổ chức bày tỏ quan điểm, tư tưởng, truyền bá thông
tin, thể hiện quyền tự do ngôn luận. Tuy nhiên, việc lợi dụng các quyền tự do
ngôn luận và văn hóa ứng xử trên không gian mạng đã và đang tiềm ẩn nhiều nguy
cơ mất an toàn cho cộng đồng.
Tự do ngôn luận trên không gian mạng
phải tuân thủ theo quy định pháp luật
Theo Điều 25 Hiến pháp năm 2013, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được
quy định như sau: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật
quy định”.
Tại khoản 1 Điều 8, khoản 1 Điều 18 của Luật An ninh mạng năm 2018 quy định
các hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng không gian mạng như sau:
- Hành vi sử dụng không gian mạng, CNTT, phương tiện điện tử để vi phạm
pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội...
- Tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo,
huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc.
- Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt
động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan Nhà nước hoặc người
thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác.
- Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm
ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng.
- Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.
Văn hóa ứng xử trên không gian mạng góp phần xây dựng môi trường mạng
an toàn, lành mạnh
Ngày 17/6/2021, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định số
874/QĐ-BTTTT quy định về Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội. Theo đó, Bộ Quy tắc ứng
xử trên mạng xã hội ra đời nhằm mục đích tạo điều kiện phát triển lành mạnh mạng
xã hội tại Việt Nam, bảo đảm quyền tự do cá nhân, quyền tự do kinh doanh, không
phân biệt đối xử nhà cung cấp dịch vụ trong và ngoài nước, phù họp với chuẩn mực,
thông lệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Đồng thời, xây dựng
chuẩn mực đạo đức về hành vi, ứng xử trên mạng xã hội, giáo dục ý thức, tạo
thói quen tích cực trong các hành vi ứng xử của người dùng trên mạng xã hội,
góp phần xây dựng môi trường mạng an toàn, lành mạnh tại Việt Nam.
Có 04 quy tắc chung như sau:
Quy tắc thứ nhất: Quy tắc tôn trọng, tuân thủ pháp luật:
Tuân thủ luật pháp Việt Nam, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân.
Quy tắc thứ hai: Quy tắc lành mạnh: Hành vi, ứng xử trên mạng
xã hội phù họp với các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thông tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam.
Quy tắc thứ ba: Quy tắc an toàn, bảo mật thông tin: Tuân
thủ các quy định và hướng dẫn về bảo vệ an toàn và bảo mật thông tin.
Quy tắc thứ tư: Quy tắc trách nhiệm: Chịu trách nhiệm về
các hành vi, ứng xử trên mạng xã hội, phối hợp với cơ quan chức năng để xử lý
hành vi, nội dung thông tin vi phạm pháp luật.
Đối với quy tắc ứng xử cho tổ chức, cá nhân cũng nêu rõ, người dùng mạng xã
hội nên sử dụng họ, tên thật cá nhân, tên hiệu thật của tổ chức, cơ quan và
đăng ký với nhà cung cấp dịch vụ để xác thực tên hiệu, địa chỉ trang mạng, đầu
mối liên lạc khi tham gia, sử dụng mạng xã hội; chia sẻ thông tin có nguồn
chính thống, đáng tin cậy; có hành vi, ứng xử phù hợp với những giá trị đạo đức,
văn hóa, truyền thống của dân tộc Việt Nam, không sử dụng ngôn từ gây thù hận,
kích động bạo lực, phân biệt vùng miền, giới tính, tôn giáo; không đăng tải những
nội dung vi phạm pháp luật, các thông tin xúc phạm danh dự, nhân phẩm ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân khác, tung tin giả, tin
sai sự thật, quảng cáo, kinh doanh dịch vụ trái phép... gây bức xúc trong dư luận
xã hội, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội; khuyến khích sử dụng mạng xã hội
để tuyên truyền, quảng bá về đất nước - con người, văn hóa tốt đẹp của Việt
Nam, chia sẻ thông tin tích cực.
Mức phạt
vi phạm hành chính về các hành vi lợi dụng mạng xã hội
Tại Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 15/4/2020 của
Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn
thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và gia dịch điện tử quy định:
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng
đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong
các hành vi sau:
- Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu
khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân;
- Cung cấp, chia sẻ thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi
trụy, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc;
- Cung cấp, chia sẻ thông tin miêu tả tỉ mỉ hành động chém, giết, tai nạn,
kinh dị, rùng rợn;
- Cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong Nhân dân, kích
động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc;
- Cung cấp, chia sẻ các tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm
mà không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc chưa được phép
lưu hành hoặc đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu;
- Quảng cáo, tuyên truyền, chia sẻ thông tin về hàng hóa, dịch vụ bị cấm;
- Cung cấp, chia sẻ hình ảnh bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể
hiện không đúng chủ quyền quốc gia;
- Cung cấp, chia sẻ đường dẫn đến thông tin trên mạng có nội dung bị cấm.
Phạt tiền từ 20.000.000 đồng
đến 30.000.000 đồng đối với hành vi tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà
nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác mà chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Ngoài phạt tiền, Nghị định cũng quy định biện pháp khắc phục hậu quả là buộc
gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật
do thực hiện hành vi vi phạm nêu trên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét